Trong Tử Vi có bốn ngôi sao đặc biệt có chung chữ Đức. Nếu đi chung với nhau sẽ tạo thành bộ Tứ Đức. Bốn sao này bao gồm: Nguyệt Đức, Thiên Đức, Phúc Đức, Long Đức. Trong bài viết này chúng ta sẽ cũng tìm hiểu một mẫu người mà Mệnh tài quan của họ hội đủ cả 4 sao. Gọi là mẫu người “Tứ Đức”
Ý nghĩa bộ sao Tứ Đức trong khoa Tử Vi
Bộ Sao Tứ Đức trong Tử Vi Nguyệt Đức, Thiên Đức, Phúc Đức thì thuộc tam hợp Dương Tử Phúc (Thiếu Dương – Thiên Không, Tử Phù – Nguyệt Đức, Phúc Đức – Thiên Đức) của vòng Thái Tuế. Tứ đức trong tử vi là đức chung bao gồm từ cả vũ trụ xuống đến một giòng họ thế nhân. Hai thế lưỡng nghi là Thiên đức (dương) Nguyệt đức (âm) xuống đến tứ tượng Long đức (Thiếu âm) Phúc Đức (Thiếu Dương) là tất cả đạo lý cao dầy cần phải nhận định sao cho hợp hoàn cảnh.Trong đó Nguyệt Đức đồng cung với Tử Phù, Phúc Đức đồng cung với Thiên Đức. Nguyệt Đức và Thiên Đức, Phúc Đức luôn luôn tam hợp với sự xuất hiện của Đào Hoa, Thiên Không và Kiếp Sát trong tam hợp. Riêng Thiếu Dương thì có thêm Long Đức xung chiếu nên có Tứ Đức chiếu.
Đức là phần tôn vinh thuộc về tinh thần, có tính cách nhân ái rộng lòng vị tha. Người được khen là có đức là người dẫn dắt cuộc sống theo đạo lý lập công hơn là kể ơn. Cổ nhân đã sắp xếp bên dương (nam) cũng như bên âm (nữ) có 4 đức. Nam thì hiếu để trung tín tức là đạo hiếu với cha mẹ trước nhất, rồi đến mến yêu anh em mới thành người trung của nước, tín thực với mọi người. Nữ thì công dung ngôn hạnh nghĩa là thông hiểu mọi việc, đi đứng khoan thai, nói năng khuôn phép, hạnh kiểm nết na, lại còn buộc theo môt khuôn sống là tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Xét ra có phần nghiêm khắc cho phái nữ.
Tứ đức đứng chụm vào vòng Thái Tuế là vòng do địa chi chi phối tạo nên tư thế cá nhân trong xã hội nhân quần. Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ là trách vụ nặng nề phải gánh vác được đền công xứng đáng tuyệt đối. Cái gì đã được nêu tên là “Thái”’ (tối đa thì còn có gì vượt lên trên được). Theo luật ngũ hành giao dịch có sinh phải có khắc, có xuất tất phải có nhập. Thái đã là tối đa rồi mà lại được nhập thêm, đương nhiên là điều bất hạnh. Lý công bằng là khi thiếu cần phải bổ khuyết, khi đã đầy đủ rồi mà bồi đắp thêm sẽ đi đến thế lệch, lệch đến thế tận cùng là tàn tạ. Do đó mới có Thiên Không đứng bên Thái Tuế.
Bốn sao này là phúc thiện tinh chủ đức độ, khoan hòa, đoan chính, nhân hậu, từ tâm. Chế ngự được tính lẳng lơ của Đào Hồng (hoặc các sao đào hoa khác) vì bản chất đoan chính. Tứ Đức cũng giải được bệnh tật nhỏ, giảm trừ được phần nào tai họa, tật bệnh, hung nguy. Là cứu tinh, chuyên giải tai ách nhưng cần căn cứ vào hung tinh loại nào để quyết đoán phú quý, bần tiện, thọ yểu. Hội với hung sát tinh thì không tác quái, hội với cát tinh thì gia tăng sự tốt đẹp. Tuy nhiên, Tứ Đức không có khả năng đương đầu với Không Kiếp, Hỏa Linh.
Phải chăng Thiên không là giấc mộng hoàng lương đối với 3 hạng người trong tử vi có những điều kiện khác biệt.
Hạng người tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu ) là người khẳng khái nhiều khi quá cứng rắn, nên kết quả thường đem lại có phần ác liệt (Thiên Không tứ mộ). Người tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) vì lòng tự hào có phần cao nên Thiên không hăm hạng này vào vòng di luỵ mỗi khi tham vọng quá mức (Đào Hoa Thiên không). Còn người Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) biết thân hiểu phận chân yếu tay mềm, dễ khiến nhạy cảm yếm thế (Hồng Loan, Thiên Không).
Ba hạng này một khi đã bị Thiên không thâm nhập huyết quản thì đồng đều ở trong tam hợp có Thiên đức, Nguyệt đức và Phúc đức, còn Long đức đứng ở thế xung, có nghĩa là phân chia cho Thiếu dương tam đức, còn để dành cho Thiếu âm.
Khả năng giải trừ tai ách của Tứ Đức
Thiên Đức, Nguyệt Đức hội với Long Đức, Phúc Đức cư chiếu Mệnh Thân thì phù trì đắc lực. Dù có lâm hạn đổ vỡ cũng không bị tuyệt địa. Nên người có sao Tứ Đức Mệnh Thân dù gì cũng được hưởng ân huệ. Họ sẽ giữ được cái cốt cách của người phong lưu, không quá khốn cùng, “cửa nhà bán sạch tra chân vào cùm”.
Long Đức tại cung Thìn nhiều người cho rằng là cách may mắn, gọi là Long cư Long vị. Vì cung Thìn có nghĩa là Long, là rồng. Theo kinh nghiệm thì người có Long Đức thủ Mệnh thì là người rất hiền lương, lương thiện, không làm việc xấu. Không có tính ranh ma, không lấn người, không hay tranh đấu hơn thua với đời. Cho dù có Không Kiếp xâm phạm cũng không làm việc mờ ám. Tọa thủ tại cung nào cũng đem đến sự êm đềm cho cung đó.
Mệnh hay Phu Thê có Thiên Đức hay Nguyệt Đức tọa thủ gặp Đào Hoa hay Hồng Loan thì là người xinh đẹp, lấy được vợ hiền chồng sang. Nữ Mệnh là người duyên dáng, xinh tươi, có tài cư xử lịch thiệp.
Người có mệnh đắc Tam – Tứ Đức là những người có thể tu thành chánh quả vì dễ đạt đến cảnh giới vô ngã, từ bi, đại lượng. Nhưng nếu có Đào Hồng hay Tham lang, mộc dục, thì lại khác. Tuy chế ngự được ảnh hưởng của dâm tinh, của tham, sân, si, nhưng vẫn ko thoát tục được, lòng vẫn vướng bụi trần.
Vì sao vậy?
Theo luật âm dương, hai phái khác biệt hẳn nhau như nước với lửa, kim với mộc. Thiếu dương đã vượt lên trên Thái Tuế tức là tinh khôn hơn Thiếu âm đứng ở tam hợp sau Thái Tuế có phần thật thà thua thiệt, vì Thiếu dương luôn luôn có Hồng Đào xốc nách (Thiếu âm nhiều trường hợp không có). Giữa Thiếu Dương và Thiếu âm đã thấy rõ ràng cán cân bù trừ chính xác. Thiếu dương được Hồng Đào vì vướng Thiên không nên được tam tứ đức đứng ra khuyên nhủ. Thiếu âm bị bạc đãi nên chỉ một Long đức đứng lên khuyên nhủ.
Trước cảnh hùng bí bao la của bầu trời (Thiên đức ), cái dịu mát trong sáng của trăng soi (nguyệt Đức), cái độ lượng nhân hậu của bậc nguyên huấn (Long đức) và sự ham muốn tu tạo bác ái của một giòng giống (Phúc đức) hẳn những ai trong kiếp nhân sinh chẳng may ở vào vị trí Thiên không không thể không suy nghĩ kỹ càng với bộ óc thông minh (Thiếu dương Hồng Loan) được định mệnh đã ban phát, dầu là hợp tình hợp cảnh giữa ngã rẽ độ đường Tứ Đức với Thiên không.
Điển hình trên những lá số nên cần được vô chính diệu ở trong có những An Quang (Mộc), Hỷ thần (Hoả), Thiên thọ (Thổ), Tấu Thư ((Kim), Thanh Long (Thuỷ) tuỳ theo hợp hành với Mệnh là đắc cách. Nếu có chính tinh thì mệnh phải khắc sao cho phù hợp như vô chính diệu và Hoá Khoa điều chỉnh để dọn đường cho Tứ Dức dễ dàng sinh hoạt. Chẳng may vô chính diệu lại chứa chấp sát tinh như Thiên Hình (Kim) Lưu Hà (Thuỷ) Kiếp sát (Hoả)… mà mệnh lại đồng hành là tất cả những gì độc hại không bờ bến
Mẫu người Tứ Đức
Ở xã hội ngày nay, người đắc tam, tứ đức ở Mệnh – Thân mà gia đình không có nền tảng vững chắc hay có người nâng đỡ hoặc một lá số Tử Vi tốt thì khá vất vả khi phải bon chen kiếm sống. Những người này thường hiền lành, quá bao dung nên dễ bị qua mặt, bị phản bội hay bị lừa gạt …
Các sao Đức nếu tách riêng ra thì tầm ảnh hưởng của nó rất nhỏ, rất dễ bị sát tinh chi phối hay triệt tiêu nhất là Tuần Triệt. Nhưng nếu đủ bộ hoặc đi theo bộ, cách riêng thì nó lại có sức giải họa rất mạnh.
Tứ Đức đóng hoặc hợp chiếu ở Phúc Đức thì phúc ấm yên cửa nhà. Thiên Di thì môi trường sống tốt, ra ngoài gặp người thiện lương. Quan Lộc công danh thẳng tắp ít gặp cản trở. Nô Bộc có nhiều người hiền tài giúp đỡ hay Thê thì vợ đẹp, nhân hậu, phú quý. Sao Đức tọa hoặc chiếu Tật Ách thì giảm mọi bệnh tật. Phụ Mẫu – Huynh Đệ người nhà hiền lương, cuộc sống dễ chịu, Tài Bạch hay làm việc thiện ……
Đức là phần tôn vinh thuộc về tinh thần, có tính cách nhân ái rộng lòng vị tha. Mẫu người Tứ Đức thường sống và làm việc có tâm, khó lòng làm việc ác. Nam thì đạo hiếu với cha mẹ, mến yêu anh em, trung thành với đất nước, giữ chữ tín với mọi người. Nữ thì công dung ngôn hạnh nghĩa là thông hiểu mọi việc, đi đứng khoan thai, nói năng khuôn phép, tiết hạnh nết na.
Thực ra người có sao Tứ Đức cũng chỉ là nói lên khuynh hướng hành động và tinh thần, suy nghĩ của đương số. Người không có bộ Tam – Tứ đức cũng chưa hẳn là kẻ ác tâm. Quan trọng là đạo đức cần phải được trau dồi, bồi dưỡng trong thời gian dài để hình thành nên một nhân cách đạo
Xem ngay: Gói luận giải tử vi chuyên sâu trọn đời cao cấp được xem bởi chuyên gia hàng đầu