Luận giải tử vi nam mệnh Dương Lương cư Mão- Nhật Chiếu Lôi Môn chọn công danh hay chọn gia đình?

Luận giải tử vi nam mệnh Dương Lương cư Mão. Cách cục Nhật Chiếu Lôi Môn chọn công danh hay chọn gia đình?

Sinh ngày 24/04/1990 vào lúc 1-3h sáng dương lịch.

Tức ngày:  29/03/Canh Ngọ giờ Sửu âm lịch.

Bát Tự : Canh Ngọ – Canh Thìn – Kỷ Mùi – Ất Sửu

Hoàn cảnh: Chưa có vợ. Bố mẹ vẫn còn. Là con trưởng, chỉ có 2 anh em.

Về việc xác định giờ sinh: Dựa trên dữ kiện năm 2008 đương số đi xa, 2013 bị mất tiền, 2016 chia tay người yêu. Cùng với đó là việc kinh doanh buôn bán tự do nhưng lại thích học ngành luật, là con trưởng trong gia đình. Do vậy, sau khi cân nhắc vận hạn cùng những đặc tính của 2 khung giờ Sửu từ 1-3h sáng và Dần từ 3h-5h thì cho thấy đương số sinh vào giờ Sửu ứng hạn và ứng tính biểu đạt tiên thiên hơn giờ Dần.

NGP_Dương-lương-cư-mão

1. Luận giải chuyên sâu chi tiết 12 cung trên lá số tử vi

1.1 Cung Mệnh 

Xét yếu tố tiên thiên thì đương số có Mệnh Lộ Bàng Thổ, Cục Thồ về ngũ hành thì Thổ cùng với Thổ là bình hòa, Cục sinh Mệnh do đó đương số là người muốn thành công trong cuộc sống cần biết uyển chuyển, linh hoạt, cần có động lực và khát khao nhiều hơn thì mới có thể thành công trong cuộc sống. Hơn nữa, bản thân nên bớt đi sự bảo thủ, tập bao dung, nhanh nhẹn lên thì mới nắm bắt được cơ hội đến với mình được. Cung Mệnh đương số đóng ở Kỷ Mão là đất của Thành Đầu Thổ, như vậy thì nó mang tính biểu trưng của người có tính nguyên tắc, cá tính cô độc, cao ngạo, không hợp với quần chúng. Tuy nhiên, bản thân là người có thể dựa vào kế hoạch của mình mà hành sự, bản thân cũng sẽ tuân thủ giới hạn của quy định, nhất nhất không vượt ra ngoài quy củ. Ngoài ra, đương số còn là người có tính kiên trì nhưng lại quá ư cố chấp, không thích nghe lời người khác khuyên bản, vì vậy nếu biết thay đổi bản tính cho mềm mỏng, hoạt bát, thu phục được nhân tâm thì có cơ hội thành tựu được đại nghiệp, bằng không nếu mình tự đánh giá mình quá cao một cách ảo tưởng thì chỉ là một người cô độc, không ai thân cận cả. Đương số sinh năm Canh Ngọ, trong mệnh bàn thì can Canh nằm ở cung Phụ Mẫu, cho nên nhân duyên tiền kiếp ảnh hưởng đến đương số ở kiếp này chính là cha mẹ, trưởng bối, hoàn cảnh giáo dục, nơi sinh ra, cũng như là sức khỏe, học hành, quan hệ với cấp trên, bậc trưởng bối, xử lý giấy tờ, văn thư, tài liệu có ảnh hưởng đến cuộc đời của đương số rất lớn, lớn hơn nhiều so với các khía cạnh khác.

Cung Mệnh đương số có Thái Dương và Thiên Lương vượng địa, trong cung còn có Hóa Lộc, Thiên Hỷ, Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Diêu, Hỉ Thần, bị Kình Đà hợp chiếu, cùng Thiên Không, Thiên Hình, Hóa Khoa, Văn Xương, Tam Đức cùng hội. Phân tích thì thấy rằng cặp Dương Lương tuy nhập Mệnh ở Mão được vượng địa tuy nhiên tính chất sẽ bất lợi cho người thân. Có thể nói rằng đương số chịu ảnh hưởng gene của cha là hơn rất nhiều so với mẹ. Thái Âm bị Tuần Không nên lực ảnh hưởng của mẹ là không có nhiều, đồng thời còn có thể liên quan đến tình thương. Ở đây cách cục Thái Dương và Thiên Lương tại Mệnh hội Văn Xương, Hóa Lộc được gọi là cách Dương Lương Xương Lộc nên là người khéo ăn nói, suy nghĩ có phần cũng cẩn thận. Khi Thái Dương đồng độ với Thiên Lương ở cung Mão được gọi là Thiên Ô hay Nhật chiếu lôi môn, đối với mệnh nam mà nói thì người này có khí khái trượng phu, chủ về đa tài đa nghệ, khéo léo trong nhiều việc tưởng chừng như nam giới sẽ không làm được bằng nữ giới. Cách cục này tuy là nói có thể giàu có được nhưng đáng tiếc là gặp Kình Đà chiếu nên dễ trở thành số hoạnh phát mà cũng hoạnh phá, không được dài lâu chút nào. Bản thân Thái Dương chủ công danh, sự nghiệp, còn Thiên Lương chủ phong cách đạo mạo cho nên nếu đương số làm công chức thì rất lý tưởng, có thể có thành tựu (còn tùy thuộc vào bố cục toàn mệnh bàn ở các cung khác phát sinh). Cái thiếu sót của Dương Lương ở cung Mão chính là nó chủ quý khí, vừa may có Hóa Lộc đồng độ cho nên cũng tạm gọi là được an ủi phần nào; thế nhưng đây chẳng phải là cách cục toàn vẹn của Dương Lương cư Mão, nó chỉ cho thấy đương số là người có hiện tượng chi tiêu nhiều mà thôi, phối với sao đào hoa có số lượng đáng kể trong cung Mệnh thì khó tránh khỏi đương số dùng vào việc tìm đào hoa làm tinh thần mình cảm thấy thư giãn. Bố cục tốt nhất phải là Thái Âm Hóa Lộc ở cung Tài Bạch, nhưng quan sát mệnh bàn thì lại là Thái Âm Hóa Khoa cho nên đương số chủ có tiếng nhiều mà không có miếng, có danh mà không có lợi song đôi, vì vậy nếu làm kinh doanh thì phải quảng bá danh tiếng thực chất của mình lên cao thì tài lộc mới tới.

Nhớ là danh tiếng thực chất từ tài năng của mình chứ không phải là quảng cáo quá sự thật, phản đòn thì rất nguy hiểm. Bằng không thì đương số lựa chọn con đường làm công ăn lương thì cuộc đời sẽ nhàn nhã hơn nhiều. Phi hóa cung Mệnh thì can Kỷ khiến cho Vũ Khúc Hóa Lộc ở cung Huynh Đệ, Tham Lang Hóa Quyền ở cung Tử Tức, Văn Xương Hóa Khoa ở cung Thiên Di, Văn Khúc Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức. Hiện tượng phi hóa này Lộc ở tha cung, Kỵ ở ngã cung, xuất phát từ ngã cung nên cũng còn được gọi là có lợi một chút. Đương số cũng có tình cảm với anh em, bạn bè khá tốt, có thể nhờ họ giúp đỡ, có duyên với chúng sinh (nhưng không hoàn toàn tất cả), đối với anh em, bạn bè thì khá nhiệt tình nhưng không hẳn là sẽ nỗ lực vì người ta. Đối với bên ngoài thì có thể hào phóng không cầu báo đáp nhưng tiếc là dễ gặp phải sự tranh chấp. Bản thân có một khao khát làm giàu, muốn tích lũy kho tiền của mình nhiều lên nhưng hành động nông nổi, tính toán không cẩn thận cũng như là mệnh cách dễ bị người ta lừa gạt khiến mình bị hao tổn. Đương số cũng là người thích ra oai ở trong nhà, nếu có con thì cũng sẽ dạy con khá nghiêm khắc, gây áp lực nặng lên chúng, thậm chí còn có thể dùng đòn roi để giải quyết. Về mặt năng lực tính dục khá mạnh, chuyện đào hoa là không thiếu trong đời, nếu người phối ngẫu không đáp ứng được thì có thể sẽ tự tìm bên ngoài mà thỏa mãn nhu cầu cá nhân; chính như vậy nên dễ vì đào hoa mà chuốc phải phiền phức, nhất là lúc chia tay. Điểm hay của cung Mệnh này là dễ được quý nhân phù trợ, dễ được người khác giúp đỡ, thu nhập bình ổn chứ không có bước đột phá lớn. Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất của đương số vẫn chính là vấn đề tình cảm, cảm xúc của mình. Bản thân dễ xung động, tư tưởng khá thiên chấp, thấy hòa nhã, yêu đời nhưng lại rất trọng danh dự, tự tôn bản thân rất lớn, không muốn ai xúc phạm đến danh dự của mình cho nên không phải là cách nằm gai nếm mật làm nên nghiệp lớn. Đương số cũng hay đâm đầu vào những chuyện khó giải quyết, rất muốn kiếm tiền tích lũy nhưng không giữ được tiền, bản thân sẽ lấy làm khổ sở, không thỏa mãn với lượng tiền mình kiếm ra. Hơn nữa, dù cho có kiếm được nhưng lại không biết kiểm soát cảm xúc, dễ vì tâm trạng tốt mà tiêu tiền, cũng vì đào hoa nhục dục mà không tiếc, sau này vợ chồng thường vì tiền bạc mà xảy ra cãi vã nhiều với nhau. Tình trạng hôn nhân hay tình cảm không thuận lợi nếu kéo dài liên tục thì đương số dễ bị lâm vào trạng thái mất ngủ triền miền, u uất mà không thể bộc bạch với người nào khác sợ người ta sẽ không hiểu mà càng làm tổn thương thêm danh dự, uy tín của mình hơn mà thôi.

Trong mệnh bàn Tử Vi Đẩu Số ngoài việc cung Mệnh và Thân có sự tương tác cao lên con người và số phận đương số, còn có một số sao Hóa tác động lên cũng không kém. Hóa Lộc là khởi điểm cho những khát vọng, những tâm sự thầm kín, những gì còn ấp ủ của đương số. Hóa Lộc trong mệnh bàn này đóng ở cung Mệnh, biểu thị đương số là người thiên nặng về chủ nghĩa lợi kỷ, lòng ham muốn nhiều, có tính chủ quan khá cao. Bản thân cũng có nhiều tham vọng, có tính đa tình cao, nhiều định hướng nên không chuyên nhất, thiếu đi lý trí sắt đá và sự thận trọng. Tuy nhiên, bản thân cũng là người cảm tính, giàu tình cảm và sống có tình người. Về bản tính này sẽ giúp đương số sống lạc quan, hòa đồng với mọi người, khi nào mộng tưởng trong đời đổ vỡ tất sẽ tạo ra mộng tưởng mới cho mình nhưng nó cũng khiến đương số có khi lạc quan quá độ, ham muốn tùy tiện và sẽ thay đổi  bất thường. Trong cuộc sống đương số thường có nhiều tâm trạng khác nhau, rất muốn bản thân thành công nhưng không có mục tiêu cố định, thành thử dễ vì học nhiều mà thiếu đi tính chuyên môn, chuyên nghiệp vững chắc. Người có Lộc năm sinh ở cung Mệnh thường là người có nhân duyên, tiền tài không thiếu nhưng tương đối tự tư, cũng là bản thân rất yêu tiền bạc của mình. Lộc năm sinh tọa mệnh thì cuộc đời tương đối loay hoay, bận rộn, cần phải dựa vào nỗ lực của chính mình, thể hiện rõ là dù bận rộn đến đâu thì bản thân cũng sẽ thấy vui sướng, thoải mái và cam tâm tình nguyện. Nhưng do bản thân không có chủ kiến cho nên trong đời định hướng cũng sẽ thay đổi một cách nhanh chóng khiến đương số dễ đi nhầm đường là vì vậy. Ở đây ta lại thấy do can năm sinh Cann dẫn hóa Thái Dương Hóa Lộc ở cung Mệnh cho nên về khía cạnh khác còn thấy đương số là người bác ái nhiệt tâm, có tư cách cầm quyền chủ quản nhưng cũng khá trọng danh dự, ít thích người khác làm tổn thương lòng tự trọng của mình. Hóa Quyền ở cung Huynh Đệ chù về anh em trong nhà có thế mạnh hơn đương số, họ có tính quyền uy hơn, có năng lượng tích cực hơn, quyết định lớn nhỏ trong nhà cũng cần phải bàn bạc với họ mới thông qua được. Quyền ở cung Huynh Đệ làm đương số thiếu đi năng lực hành động cũng như tính thực tiễn cuộc sống, phần nhiều có thể trông chờ vào sự giúp đỡ của anh em, bạn bè. Nhưng lấy tuyến Huynh Nô để luận thì đương số trong cuộc sống có thể giao du được với nhiều người có địa vị xã hội cao hơn mình, đồng thời có thể nhờ họ mà địa vị xã hội của mình có thể được nâng lên cao hơn. Điểm hay của Quyền ở cung Huynh Đệ là đương số có thể chất dẻo dai, có thể chịu đựng được sự đả kích bên ngoài, có lực đề kháng với tai hại bất ngờ. Lấy cung Huynh Đệ xem là cung Điền Trạch của cung Tài Bạch hay là cung Tài Bạch của cung Điền Trạch thì ở đây có Vũ Khúc Hóa Quyền nhưng gặp Hỏa Linh, Phi Liêm đồng cung do vậy đương số về tình hình điều độ tiền bạc có phần nóng nảy, hấp tấp, bốc đồng, không suy tính. Tuy là thấy không có lo lắng về tiền nhưng khi có tiền trong tay thì khó mà để yên, hay nóng vội làm điều gì đó mà thông thường sẽ làm tổn hao kho tiền của mình. Ý vị này cỏn ảnh hưởng đến hôn nhân khi cung Huynh Đệ là cầu nối giữa Mệnh và Phu Thê, nó cho thấy đương số trong giai đoạn yêu đương không thiếu sự tranh chấp, biến động rất nhiều, cũng vì tình yêu, hôn nhân mà phải bôn ba ngược xuôi mệt mỏi.

Lấy cung Huynh Đệ là cung Phụ Mẫu của cung Phu Thê thì cha mẹ người phối ngẫu sẽ có ảnh hưởng khá lớn đến hôn nhân của đương số, họ có thể xen vào cuộc sống hôn nhân của đương số khiến cho nó không được yên ổn chút nào. Hóa Khoa ở cung Tài Bạch thì biểu thị đương số có nghề nghiệp chuyên môn tốt, có thể vận dụng được công việc chuyên môn để kiếm tiền nuôi sống bản thân. Hóa Khoa ngoài tính giải trừ tai họa thì nó còn có ý nghĩa bảo thủ, tuần tự tiến từng bước, do vậy đương số nếu không tự ý bỏ việc thì cũng khó bị đuổi, hoặc là bản thân sẽ ít bị thất nghiệp chờ qua thời gian dài, thông thường là sẽ có việc lại rất mau sau khi nghỉ. Khoa ở cung Tài thường mang đến cho đương số lời nói cử chỉ ôn hòa, có nguyên tắc, có quy củ, biết kiềm chế tâm trạng dù có nóng đến đâu chăng nữa. Hóa Khoa còn chủ về danh tiếng, phối với Mệnh có Thái Dương, Thiên Lương thì đương số nên nỗ lực gầy dựng danh tiếng của mình lên cao sau đó tiền tài mới kéo theo được. Bằng không chỉ chú trọng vào tiền tài lúc đầu, không tập trung xây dựng thanh danh thì khó mà có được cái gì như ý. Hóa Khoa ở cung Tài mang đến tư cách minh bạch, đương số là người hiểu nhân tình thế thái, không kết bè kết phái để mưu lợi riêng cho nên trong con mắt người xung quanh thường thấy họ khá đơn độc. Điểm cốt lõi của Khoa ở cung Tài là kiếm tiền cần chậm rãi, chú trọng sự an toàn, không cần nhiều nhưng sẽ không bị đói kém, thích hợp làm công chức lĩnh tiền lương hơn là cách cục khai sáng sự nghiệp kinh doanh. Trong cuộc sống liệu cơm gắp mắm, bình thản qua ngày, bình an hạnh phúc là kim chỉ nam của mệnh bàn này. Hóa Kỵ ở cung Phu Thê là biểu lộ đương số có ý trông đợi người phối ngẫu gánh vác trách nhiệm cùng với mình hoặc sẽ thay mình. Theo cái lý mà nói thì đương số là nam giới, trong thực tế xã hội thì phải gánh vác trọng trách gia đình cho nên ý tứ này sẽ làm cho người phối ngẫu phải chịu đựng áp lực quá nặng, có đối với đương số vì quá kỳ vọng mà cảm thấy rất hụt hẫng, tình yêu có thể từ yêu thương mà biến thành thù hận. Kỵ mang tính thu vào, mọi công năng của tứ hóa đều quy về nó, do vậy khi Kỵ ở Phu Thê thì đương số nhất định sẽ có kết hôn hoặc sẽ có một giai đoạn trong cuộc sống tương tự như quan hệ hôn nhân. Lực của Kỵ mang tính phức tạp vì vậy mà đương số nếu trong đời mà yêu đương quá sớm, kết hôn quá sớm thì do tâm lý chưa chín chắn rất dễ dẫn đến chia tay hoặc sẽ có biến động trong hôn nhân rất lớn. Cách cục này dự báo phải kết hôn muộn và trạng thái tâm lý phải thật vững vàng, ổn định mới được.

Luận về người phối ngẫu từ hình ảnh của Kỵ ở Phu Thê thì người phối ngẫu sẽ có tính hướng nội, trầm mặc và đa nghi hơn đương số nhưng dường như đây có thể chỉ là những ý nghĩa mà đương số tạo ra cho người phối ngẫu mà thôi. Hóa Kỵ có tính chiếm hữu, không trong sáng, khó hiểu do vậy khi Kỵ ảnh hưởng đến cung Phu Thê thì đương số sẽ có cách biểu đạt tình yêu rất kém. Thông thường bản thân sẽ nhầm lẫn giữa các khái niệm yêu đương với nhau, có khi sẽ có hành động không được ổn và bình thường trong các mối quan hệ tình cảm của mình, còn có ý vị ngầm là rất ghen tuông. Bởi vì vậy, sự sắp đặt của tạo hóa cũng sẽ khiến đương số gặp người còn có tính ghen tuông hơn cả đương số, họ không có thói trăng hoa và còn rất là miệng lưỡi không lấy làm dễ chịu. Chính vì vậy mà đương số tự trong lòng sẽ cảm thấy hôn nhân như cái hố sâu chứa đầy sự bất mãn, bản thân khó có sự vừa ý, thỏa mãn mà là mang ý vị ai oán tình sầu khá nhiều. Kết hợp với cung Mệnh có Hóa Lộc, cung Phúc Đức hội Xương Khúc, Hồng Loan thì đương số một khi có cơ hội thì liền nắm bắt mà tìm cho mình người khác ngay. Xem thêm về sự ảnh của Hóa Kỵ thì khi nó ở cung Phu Thế tất yếu sẽ xung ngã cung Quan Lộc, do vậy chủ về sau khi kết hôn sẽ ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp của đương số. Bản thân cần xác định nếu muốn có hôn nhân thì sau khi cưới vợ cần phải trải qua một lần chịu ảnh hưởng không tốt về sự nghiệp mới có thể tạo hướng đi mới cho cuộc đời mình được.

1.2 Cung Huynh Đệ:

Cung Huynh Đệ của đương số có chính tinh Vũ Khúc vượng địa và Thiên Tướng miếu địa tọa thủ cung Dần. Cung Huynh Đệ có Vũ Khúc là sao quả tú cho nên về hình tượng đương số sẽ ít anh em, hơn nữa do gặp Hỏa Linh, Địa Không cho nên số lượng càng bị hạn chế, nói không chừng cha mẹ còn có thể bị hư người nào nữa. Phạm vi tính lý của cung Huynh Đệ nói về anh em thì trên cung Mệnh đã khái quát được phần nào, có thể thấy rằng trong nhà anh em đương số tích cực nhưng họ khó nóng nảy, hành động nóng vội, không biết suy tính dài lâu. Bản thân anh em trong nhà nên sống điềm đạm một chút, không nên gây gỗ với người ta thì đỡ bị hình khắc hơn. Hóa khí cung Huynh Đệ thì can Mậu khiến cho Tham Lang Hóa Lộc ở cung Tử Tức. Nó biểu thị anh em đương số có duyên với người khác giới, nhu cầu tính dục cũng rất cao, thích phong hoa tuyết nguyệt, cũng thích hợp tác, chi tiêu, hưởng thụ. Cung vị này lại Tham Lang lại tự Hóa Lộc cho nên nếu nói về đời sống tình dục hay thanh nhã hơn là quan hệ yêu đương của đương số thì tình cảm sớm chín mùi hoặc dễ có khuynh hướng nam nữ quan hệ thân mật. Đương số hoặc anh em đều muốn kết hôn sớm nhưng tư thế là nóng vội, muốn ăn cơm trước kẻng,  cuối cùng là dễ nửa đường đứt gánh vì hoa nào chóng nở thì chóng tàn mà thôi. Do vậy, trong tình cảm cần phải biết dung dưỡng, nâng niu thì mới lâu dài. Đồng thời Tham Lang tự Hóa Lộc ở cung Tử Tức thì đương số và anh em trong nhà không tránh khỏi việc tìm đến việc đào hoa bên ngoài, kiểu như ăn bánh trả tiền chẳng hạn. Khái quát về sự đầu tư làm ăn thì hay có hiện tượng đầu voi đuôi chuột, sôi nổi ban đầu mà thiếu sức bền, cho nên nếu bản thân kinh doanh thì chỉ nên hùn hạp trong thời gian ngắn hạn thì được, không có căn cơ đi đường dài. Bản thân trong kinh doanh hay là đời sống tình cảm cần chậm lại một chút, nghĩa là cần đắn đo suy nghĩ kỹ càng, bởi vì hiện tượng này dễ vì cảm tính hoặc vì giao tế thù tạc mà không biết tiết kiệm, tiêu xài tiền một cách vô lối, không tự lượng sức mình khi đánh giá về vấn đề nào đó trong hợp tác. Thiên Cơ Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức thì thứ nhất là tài khí của anh chị em trong nhà không vượng, có thể còn gây lụy đến đương số, trong lòng thường hay lo lắng không yên, nhất là về vấn đề nhà cửa, đất đai, thừa hưởng. Bản thân đương số cũng dễ bị tổn thất tiền bạc, hợp tác làm ăn với người khác hoặc sự nghiệp hay rơi vào tình trạng phát triển chậm, đầu tư dễ bị lỗ vốn; nhưng hiện trạng này xảy ra lại bi quan mà tiêu xài tiền loạn xạ; đồng thời lúc khó khăn đương số cũng khó mà mượn được tiền của bạn bè mà xoay sở.

1.3 Cung Phu Thê :

Cung Phu Thê có chính tinh Thiên Đồng và Cự Môn hãm địa tọa thủ cung Sửu. Với việc hiện hữu của cặp Đồng Cự hãm ở cung Phu Thê thì ý tượng đầu tiên dễ đánh giá là đương số dễ bị ít nhất là hai lần nhân duyên, chưa kể trường hợp Thiên Đồng Hóa Kỵ. Bởi vì Thiên Đồng ở cung Phu Thê trong quan niệm của người xưa thường chủ về nạp nhiều thê thiếp, thời buổi hiện đại một vợ một chồng thì mang nhiều ý nghĩa sắc thái hơn. Đầu tiên là đương số trước khi có hôn nhân dễ sống chung với nhau với người nào đó rồi chia tay, hoặc là yêu đương nồng cháy để rồi hôn nhân tan vỡ, lại tái lập cuộc hôn nhân mới. Thiên Đồng cùng Cự Môn ở cung Sửu gặp phải Hóa Kỵ thì ý tượng chính là đau khổ vì tình, tình yêu không bình thường hoặc trong quá trình phát sinh tình cảm thời mới lớn hay có nhiều mối tình đơn phương. Quả thật như vậy, khi cung Phu Thê có Thiên Đồng Hóa Kỵ biểu thị cho việc mất phúc, gia đình người phối ngẫu hoặc gia thế, gia cảnh của họ không được tốt cho lắm. Phần nhiều là gia thế hoặc gia cảnh của đương số sẽ tốt hơn gia đình người phối ngẫu nhiều. Họ sẽ phải gánh vác kinh tế cho gia đình mình, cho cha mẹ mình cho nên cũng sẽ gây áp lực không nhỏ lên đương số. Kỵ ở cung Phu Thê biểu thị cho đương số kiếp trước thiếu “nợ” người phối ngẫu, sức khỏe của người phối ngẫu cũng không tốt, lại còn hay có tính so đo, ghen tuông nên ảnh hưởng đến tình cảm lứa đôi khá nhiều. Hơn nữa, việc Kỵ lạc cung Phu Thê thì nhất định người phối ngẫu sẽ không trợ lực được gì cho sự nghiệp của đương số, bản thân phải hoàn toàn tự lực thôi. Khi cung Phu Thê có Cự Môn thì cung Mệnh là Thiên Lương, điều này hàm nghĩa rằng cuộc sống thường dễ có nạn tai, vợ chồng cũng có nhiều hình khắc, điều tiếng cãi vã. Theo thuyết mệnh lý của cổ nhân thì cung Phu Thê cực kỳ không tương thích có Cự Môn đóng ở đấy, nó chủ về ngăn cách, thị phi hoặc sinh ly tử biệt. Hơn nữa, với trường hợp này là Cự Môn bị hãm địa, lại có Kình Dương và Đà La, Đại Hao cùng hội, chủ về đời sống vợ chồng tự tìm phiền phức với nhau, chuyện bé xé ra to, quan hệ tình cảm lúc đầu tốt lúc sau  xấu cho nên phần nhiều ý tượng đều hiển hiện lên như đã nói là đương số sẽ trải qua ít nhất hai lần đò. Ngoài ra Kỵ từ Phu Thê xung cung Quan Lộc, mà cung Phu Thê là cung vị Thiên Di của cung Quan, biểu thị hoàn cảnh bên ngoài của công việc, do đó nó mang đến ý nghĩa đương số ra ngoài làm việc tương đối không thuận lợi, lại có rất nhiều biến động không tích cực cho lắm, nếu đi làm hưởng lương thì sẽ tương đối bình an hơn. Nói rộng ra hơn nữa, là khi Đồng Cự cùng đồng độ ở cung Sửu, cung Mệnh là cách Dương Lương thì chủ về người phối ngẫu nên có sự nghiệp riêng, hai bên nên độc lập với nhau, bằng không nên làm khác nghề, khác chỗ làm việc, chứ nếu không thì sẽ có nhiều điều tiếng, rối ren trong tình cảm. Xét thêm về tính phi hóa của cung Phu Thê thì can Kỷ khiến Vũ Khúc Hóa Lộc ở cung Huynh Đệ, là cung Phụ Mẫu của Phu Thê; Văn Khúc Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, là cung vị Quan Lộc của cung Phu Thê.

Về mặt tốt mà nói thì người phối ngẫu tuy miệng lưỡi, nói năng bất cẩn, dễ chiêu thị phi nhưng họ cũng khá có hiếu với cha mẹ, có thể xử sự hòa nhã với anh em bạn bè của đương số, không đến nỗi quá tệ. Tuy nhiên, vấn đề ở đây chính là Văn Khúc Hóa Kỵ phi về cung Phúc Đức, xung cung Tài Bạch; mà cung Tài Bạch là cung vị Phu Thê của Phu Thê, ám chỉ đương số. Cho nên ý nghĩa biểu thị là người phối ngẫu tâm thần bất định, khi chất không tốt, hay đâm đầu vào những chuyện không đâu, khó giải quyết, tư tưởng dễ chuyển đổi, nay đông mai tây. Khi phi Kỵ nó xung vào chính đương số thì đời sống hôn nhân của cả hai người không được hạnh phúc, vợ chồng vì tiền bạc mà sinh ra cãi vả nhau liên tục; người phối ngẫu cũng chẳng giữ được tiền. Một điều càng nguy hiểm hơn nữa là từ cung Phúc chuyển Văn Xương Hóa Kỵ xung thẳng vào cung Mệnh, là cung vị Phúc Đức của cung Phu Thê. Điều này càng chứng tỏ đương số không có duyên với tình cảm hôn nhân, với người khác phái cũng không thu hút, dễ nảy sinh hiểu lầm, hôn nhân khó mà hạnh phúc dài lâu. Cung Thiên Di cũng là cung vị Tài Bạch của cung Phu Thê do vậy sống chung với nhau nếu tiền bạc ổn, làm ra dư dả tiêu xài thì không sao; nếu như đương số làm không đủ chi tiêu, hoặc thậm chí chỉ là vừa đủ tiêu dùng thì nhiều khả năng đời sống vật chất không thỏa mãn ắt sẽ dẫn đến đời sống tinh thần, tình cảm có nhiều điều nguy hại. Nói chung, đánh giá toàn diện về hình tượng lẫn việc phi hóa cung Phu Thê thì đương số kém duyên với đường hôn nhân, cần phải sống tốt, nhẫn nại, đồng thời nên nghiêm túc với tình cảm hôn nhân, xây dựng sự nghiệp, tiền tài, vật chất vững vàng rồi kết hôn thì hay hơn. Tuổi Canh Ngọ 1990 nên kết hôn với tuổi Mậu Dần 1998 hoặc tuổi Kỷ Mão 1999 để có hôn nhân bền vững.

1.4 Cung Tử Tức :

Cung Tử Tức của đương số có chính tinh Tham Lang hãm địa tọa thủ cung Tý. Tham Lang ở cung Tý là phiếm thủy đào hoa, mà cung Tử Tức là cung quan hệ tính dục vì vậy mà nó ứng tượng đương só có nhu cầu tính dục khá cao, bản thân sẽ dễ truy cầu nhiều về vấn đề này. Về hình tượng thì như đã nhận xét ở cung Huynh Đệ có liên đới, cần xem lại. Ở đây thấy rằng với công năng tính dục lớn, nếu như thành lập hôn nhân thì đương với cặp Tả Hữu chiếu thì bản thân sẽ mong mỏi có nhiều con, nhưng việc Khốc Hư, Cô Quả cùng hội thì nhiều thành ít, việc nuôi dưỡng cũng có phần khó khăn. Cung Tử hội Sát Phá Tham toàn bộ bị hãm địa thì con cái sau này sinh ra có phần nghịch ngợm, ham chơi, tâm tư hay u uất, lo lắng, buồn rầu, thích ra bên ngoài kiếm tiền. Hóa khí cung Tử Tức thì can Mậu khiến cho Tham Lang Hóa Lộc, nghĩa là cung Tử Tức tự Hóa Lộc, như vậy con cái có duyên phận sâu với đương số (bất luận tốt xấu), thông minh, máu kiếm tiền, tự mình mở rộng quan hệ kết giao bạn bè chứ không cần người ta tìm tới. Ngoài ra khi giao du với người khác chúng sẽ có tác phong của kẻ mạnh, không dễ gì bị lấn áp. Tuy nhiên, cung Tử Tức lại phi Thiên Cơ Hóa Kỵ vào cung Phúc Đức, là cung vị Nô Bộc của cung Tử cho nên con cái quan hệ giao lưu bạn bè thường dễ gặp rắc rối, dễ xung động, hay có tư tưởng cực đoan; tuy bình thường lười biếng, thích hưởng thụ, tính tình khó đoán nhưng cũng có thể vất vả vì người khác mà không than van oán trách. Cung Phúc Thiên Cơ Hóa Kỵ xung cung Tài Bạch cho nên con cái sau này không giữ được tiền, tiêu xài nhiều tiền của đương số, bản thân chúng vì bạn bè mà tổn hao hoặc đối với bạn bè thường khá rộng rãi nhưng khi cần nhờ bạn bè giúp thì khá là khó. Tuyến cung vị Huynh Nô của con cái có Thiên Cơ Hóa Kỵ nhập thì dễ gặp kiếp số, cho nên tránh va chạm. cãi vã với người ta; nên nhẫn nhịn, tránh khích bác, động tay động chân với bạn bè, đồng nghiệp vì dễ gặp tổn thương cho bản thân; nói chung là nên sống hiền lành, đừng xung động mà rước họa vào thân. Đây chính là trách nhiệm dạy dỗ của đương số sau này.

1.5 Cung Tài Bạch:

Cung Tài Bạch của đương số có chính tinh Thái Âm miếu địa tọa thủ cung Hợi có Tuần Không án ngữ. Trước tiên ta thấy cung Tài Bạch bị Tuần Không thì vấn đề kiếm tiền không được như ý muốn, cung cách sử dụng tiền tất nhiên có vấn đề, và quan trọng nhất là đương số là người không giữ được tiền của mình. Quả thực như vậy vì ngoài vấn đề hiện hữu của Tuần Không thì trong cung còn có bại tinh Song Hao, kiếm được 10 phần thì may ra để dành lại được 2 phần là cũng thỏa nguyện rồi. Mặc dù là đồng cung còn có Hóa Khoa biểu thị việc sử dụng tiền có sự minh bạch, nhưng về lý mà nói thì Hóa Khoa có tình từ từ do vậy việc chi xuất tiền bạc của đương số không được nhanh nhạy, hơn nữa, bố cục Hóa Khoa ở cung Tài thường là làm công ăn lương sẽ an toàn hơn. Lấy sao chính tinh mà luận thì tuy Thái Âm miếu địa cư cung Tài Bạch là hợp lý nhưng điều này chỉ chủ về đương số có tiềm lực để kiếm tiền chứ phối hợp bố cục lại không phải là người có thể giàu có được. Thái Âm tuy là sao tiền bạc, sao kiếm tiền nhưng nó chủ tĩnh, tàng chứa do vậy biểu trưng của nó là tích lũy, tích tụ, suy nghĩ cẩn thận và hưởng thụ. Muốn thành công về con đường tiền bạc với cung Tài này thì đương số phải trải qua việc học hỏi quản lý tài chính thật vững, nhờ kế hoạch của bản thân thì mới thu được thành quả, bằng không có kiếm bao nhiêu thì cũng hao tán đi mà thôi. Nói điều này là không thừa vì Thái Âm miếu địa ở cung Tài Bạch là đương số biết kiếm tiền, cũng có kế hoạch hành động tốt nhưng gặp Tuần Không, Song Hao thì chủ về làm ăn buôn bán không thuận lợi, thu nhập bị giảm thiểu hoặc kinh doanh bị hụt vốn liên tục mà ảnh hưởng đến tài chính của bản thân. Một điều nữa cần nhận định rằng Thái Âm miếu địa ở cung Hợi tuy có tiềm lực để kiếm tiền nhưng đương số phải có danh dự, địa vị trước rồi mới có tài phú sau, đây không phải là cách cục kinh doanh ăn mà trở nên giàu có, vì đối cung là Thiên Cơ chủ về biến động, thay đổi, cung Phúc là đối cung, cũng là cung vị Thiên Di của Tài Bạch cho nên ra ngoài dễ bị hao tiền tài, chủ về tiền bạc không tụ. Nếu cố gắng kinh doanh thì chỉ có phương thức thu chi tiền bạc một cách nhanh gọn, lưu lượng tiền bạc lưu thông xoay chuyển theo chu kỳ tốc độ lớn chứ không phải là việc ngâm vốn chờ đợi cơ hội hay đầu tư vốn quá lớn mà thu tiền cắc hàng ngày.

Phi hóa cung Tài thì can Đinh khiến Thái Âm tự Hóa Lộc thì đương số là người chú trọng hưởng thụ, không quá xem trọng tiền bạc, có thể vì tình người mà tiêu tốn một số tiền lớn. Do vậy, nếu kinh doanh mà thái độ bất cẩn, không tính toán chi tiêu một cách hợp lý thì khó mà lâu dài được. Về tiền tài mà nói rõ ra thì việc Thái Âm tự Hóa Lộc sẽ khiến đương số không biết cách tiết giảm sự chi tiêu, nhưng là người cũng rất biết cách kiếm tiền, tiền đi thì liền có tiền đến, trong tay không bao giờ thiếu tiền tiêu xài, tự kiếm tiền tự tiêu xài. Đây là cách cục của mẫu người không biết cái gì gọi là tiết kiệm, cho nên tốt nhất bản thân cần có người giữ tiền cho mình chứ không là dù có tiền lớn bao nhiêu đi nữa cũng sẽ tiêu hết mà thôi. Can Đinh lại khiến Cự Môn Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, là cung vị Phúc Đức của Tài Bạch, xung ngược cung Quan Lộc, là cung vị Tài Bạch của Tài Bạch. Cách cục này quả thực là đương số không nên kinh doanh, bởi vì phát sinh từ cung Tài Bạch mà Cự Môn Hóa Kỵ phi về pHu Thê như vậy thì làm ăn đầu tư khó thành, đôi khi tiềm lực không đủ phải đi vay tiền mới làm được. Hơn nữa, trong cung Thê còn có Hóa Kỵ năm sinh, hợp lại là Song Kỵ thì mức độ xấu sẽ tăng gấp đôi. Nó làm cho đương số về con đường kiếm tiền bằng cách kinh doanh, buôn bán chẳng được như ý, trong đời tất yếu vài lần gãy đổ là ít. Cung Phu Thê còn là hình tượng của người phối ngẫu, của hôn nhân, ở đây đương số dễ vì người mà phá tài, hơn nữa, người phối ngẫu sẽ quản tiền của đương số rất chặt, quan hệ giữa đôi bên không được hạnh phúc, giữa vợ chồng vì tiền mà trở nên oán trách, bạc nghĩa với nhau. Chuyển Kỵ thì Văn Khúc Hóa Kỵ phi về cung Phúc Đức, là Tam Kỵ xung cung ngược cung Tài Bạch. Điều này càng khẳng định rõ hơn là đương số thường có hành vi tiêu xài tiền sai lệch, kiếm tiền sẽ không thỏa mãn được ý nguyên của bản thân, chất lượng hưởng thụ không được tốt nhưng dù không có tiền mà vẫn muốn hưởng thủ. Lời khuyên cuối cùng từ cung Tài Bạch là đương số làm ăn thì nên mua bán bằng tiền mặt, tốc độ quay vòng vốn nhanh, không nên làm sản xuất. Không nên đầu tư vào chuyện làm ăn của người phối ngẫu. Cuối cùng là nếu không đủ tiềm lực, kinh nghiệm để kinh doanh thì nên làm công ăn lương sẽ nhẹ nhàng cho bản thân hơn.

1.6 Cung Tật Ách:

Cung Tật Ách có sao chính tinh Liêm Trinh miếu  địa và Thiên Phủ vượng địa tọa thủ cung Dậu có Tuần Không án ngữ. Cung Tuất thuộc thổ, Liêm Trinh thuộc hỏa, Thiên Phủ thuộc thổ, nên xét về mặt tượng lý thì hỏa sinh thổ, thồ dày chèn lấp thủy; do vậy đương số về mặt bệnh tật sẽ cần chú ý đến thận âm, tỳ vị. Ở đây Thiên Phủ gặp Địa Không, Tuần Không chính là kho lộ, kho trống cho nên chức năng tiêu hóa kém, cơ năng tiêu hóa thất thường, còn có Hỏa Linh cùng chiếu hội với Liêm Trinh thì dạ dày bị viêm nặng, nếu ăn nhậu nhiều dễ bị xuất huyết dạ dày, đi đại tiện ra máu, da dẻ vàng vọt, khó mà có thể mập lên được. Đương số nếu còn có chế độ ăn uống không khoa học, uống rượu nhiều thì bệnh về gan cũng sẽ phát triển mạnh, còn có thể liên quan đến viêm đại tràng khó chữa. Cung Tật này còn biểu đạt đương số dễ bị chứng hư hỏa, thân nhiệt nóng, về lâu về dài dễ bị chứng huyết áp cao, đi tiêu ra máu, khạc ra máu, răng chảy máu, lúc nhỏ dễ bị mụn nhọt, dậy thì nổi mụn nhiều. Ở đây vấn đề là Tuần Không án ngữ, cùng với Phục Binh chiếu, cung Tật lại ở cung Thiên La Địa Võng cho nên đương số dễ mắc bệnh mãn tính hoặc nhiều khi khám không ra nhưng trong người cứ thấy mệt không rõ do đâu. Ngoài các vấn đề đó thì đương số cũng cần chú ý về các vấn đề tính dục, nếu còn thủ dâm hoặc sinh hoạt quá độ thì sau này thể chất tất sẽ bị ảnh hưởng về lúc trung niên rất nhiều. Nói chung là đương số đừng thấy thể trạng bên ngoài mạnh khỏe mà chủ quan, có nhiều bệnh tật bên trong tiềm tàng, cần phải rèn luyện sức khỏe, ăn uống đúng khoa học, hạn chế rượu chè, dùng chất kích thích như thuốc lá, thuốc lào ở mức vừa phải. Nên ăn uống đồ mát, sống cởi mở, không bảo thủ, nóng tính và chấp nhận khuyết điểm của mình thì bệnh tật sẽ tự điều chỉnh được một cách thuận lợi thôi.

1.7 Cung Thiên Di:

Cung Thiên Di của đương số không có sao chính tinh tọa thủ cung Dậu. Cung Thiên Di vô chính diệu, lại gặp Xương Khúc, Hồng Loan và Kình Dương, Lục Sĩ. Đương số lúc ra bên ngoài luôn chứng tỏ mình là người mạnh mẽ, nhưng cách hành xử có phần quá thiên về tình cảm, thích đào hoa nhưng lại không biết nuôi nấng, gìn gữ, thường là chỉ gặp nhiều ngang trái, cản trở mà thôi. Hơn cung vị Tài Bạch của Thiên Di có Thiên Cơ, Song Hao thì về phương diện kiếm tiền ở bên ngoài phải rất năng động, dễ kiếm nhưng cũng dễ tiêu pha nhiều. Cung vị Quan Lộc của Thiên Di thì có Thiên Đồng, Cự Môn Hóa Kỵ biểu thị tình hình công việc thay đổi nhiều phen, dễ gặp phải thị phi trong công việc khi ở phương xa. Hóa khí cung Di thì can Ất khiến cho Thiên Cơ Hóa Lộc ở cung Phúc, nó nói lên rằng đương số ở bên ngoài là người có tài ăn nói, lời văn phát ra thường là được chau chuốt, có tính mỹ từ rất cao, có thể gây được thiện cảm cho người khác. Cung Phúc Đức có cung Thân đồng cung cho nên nếu nửa đời còn lại nếu tha phương lập nghiệp kiếm tiền thì sẽ có dư dật một phần nào đấy.

Tuy nhiên, nhìn lại cung Mệnh thì với cách Dương Lương tọa Mệnh, cung Thiên Di lại vô chính diệu thì khó mà đi xa và định cư ở nơi khác được, đương số có đi rồi cũng về lại nơi chôn nhau cắt rốn mà thôi. Thái Âm Hóa Kỵ phi về cung Tài Bạch là việc kiếm ở phương xa tuy là có nhưng khá ít, đương số phải chớp lấy cơ hội cho thật nhanh mới được; bản thân vì tiền mà phải bôn ba nhiều, khó sống hòa hợp được với người khác, tuy có duyên với người xung quanh nhưng giao tế thực sự không khéo léo lắm. Đặc biệt là nó chuyển Cự Môn Hóa Kỵ về cung Phu Thê hội Kỵ năm sinh thành ra đương số tuy muốn cưới vợ nhưng đường hôn nhân rất trắc trở. Sau khi lấy vợ xong thì sự nghiệp sẽ có lần gãy đổ nặng, rơi vào hoàn cảnh xấu, rất mệt mỏi. Nói chung, cung Thiên Di biểu thị đương số ra bên ngoài dễ bị cuốn hút bởi đào hoa, tâm trạng đôi khi hưng phấn quá mức, cũng có thể chi tiền để tìm kiếm đào hoa cho mình, còn về tình yêu thực sự thì dễ phải xảy ra tranh chấp, hơn thua. Ngoài ra tính lý của Kình Dương nóng nảy, bộ trực, hội chiếu với  Cự Môn Hóa Kỵ thì nên cẩn thận miệng lưỡi kẻo gây ra họa thị phi cho mình không hay. Nói chung, vfe mặt đi ra bên ngoài của đương số thì nên cẩn thận một chút kẻo té ngã, còn quan hệ với phụ nữ cần có chừng mực; hạn chế việc di kiếm người giải tỏa cho bản thân mình.

1.7 Cung Nô Bộc:

Cung Nô Bộc của đương số có sao chính tinh Phá Quân hãm địa tọa thủ cung Mùi. Trong Tử Vi Đẩu Số thì Phá Quân hóa khí làm sao hao cho nên khi đóng ở cung Nô Bộc thường không mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho lắm. Nó chủ về đương số vì bạn mà phá tài, hao tổn, hoặc vì thủ hạ bất trung mà dẫn đến tiền bạc hay sự nghiệp của mình bị phá tán, thất bại. Thực ra, với tính lý của mình Phá Quân không ưa cung Nô Bộc gì cho lắm, dù cho ở tình trạng này Phá Quân có gặp được Lộc Tồn nhưng mà đóng ở vị trí Tang Môn, lại còn có Hỏa Linh xung cung, Địa Kiếp, Khốc Hư, Cô Thần, Quả Tú khiến cho đương số vừa ít bạn mà có mở mang sự nghiệp kinh doanh đi nữa cũng ít người làm, thuộc hạ giúp cho mình. Vả lại bản thân đương số cũng khó mà kiếm được bằng hữu tri kỳ quen biết dài lâu, đối tượng bạn bè thay đổi liên tục, không cố định nhưng chơi với thành phần nào đương số cũng đều mang tính trạng bất ổn, được một thời gian hết lợi ích với nhau thì tan đàn xẻ nghé mà thôi. Nhìn lại thì Lộc Mã đồng cung đi với Phá Quân thì đương số sẽ quen biết bạn bè về lĩnh vực kinh doanh buôn bán là phần nhiều, các mảng sale, chào hàng, marketing sẽ có bạn bè không ít, các thành phần khác sẽ ít lại. Hóa khí cung Nô Bộc thì can Giáp khiến cho Liêm Trinh Hóa Lộc ở cung Tật Ách thì việc kết giao bạn bè khiến đương số cảm thấy rất vui vẻ, tự bản thân thấy mình có duyên với bạn bè khác giới, đối với bạn bè có sự hứng thú, nỗ lực nhất định. Tuy nhiên, khi Thái Dương Hóa Kỵ về cung Mệnh mới là ý tương chính, nó cho thấy đương số giao du với bạn bè thì thường rất ỷ lại vào đương số, lúc ăn nhậu, chén thù chén tác nếu không có giao kèo gì trước thì thường đương số phải là người chi trả, nhưng ngược lại rất ít khi được đáp trả lại. Đương số rất ít bạn bè như đã nói, có nhiều cũng chỉ tổ gây khó xử cho bản thân đương số mà thôi, cả một đời ít bạn thâm giao, đi tìm tri kỷ thật là khó. Đương số chính vì vậy không nên hợp tác với người khác quá sâu, dễ bị đổ vỡ. Bản thân cũng không nên cho khách hàng nợ tiền quá lâu, vì như thế sẽ làm hao hụt vốn của mình, kinh doanh về lâu về dài tất nhiên là rất bất ổn. Chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ về cung Phúc thì nó sẽ xung cung Tài Bạch do vậy bạn bè, người dưới quyền sẽ làm đương số bị hao tốn tiền bạc nhiều, cần chọn mặt gửi vàng chứ đừng thấy ai cũng vội tin thì tiền của của mình sẽ không cánh mà bay thôi. Ý tượng phát sinh qua việc phi hóa này còn cho thấy người phối ngẫu của đương số sức khỏe không tốt, dễ bị bệnh nặng, công việc hay sự nghiệp cũng có nhiều chiều hướng không thuận lợi cho lắm.

1.8 Cung Quan Lộc:

Cung Quan Lộc của đương số không có sao chính tinh tọa thủ cung Mùi. Như đã nói sơ qua nhiều tình tiết ở phía trên thì cung Quan Lộc của đương số bị Hóa Kỵ xung thì về mặt tiên thiên, cách cục tự mở mang sự nghiệp e rằng gặp rất nhiều trắc trở, Thiên Không, Đà La tọa thủ khiến cho định hướng sự nghiệp của đương số mất đi tính định hướng. Việc Đồng Cự chiếu cung Quan Lộc và theo lý thuyết có thể mượn toàn bộ tinh hệ ở cung Phu Thê về để suy xét thì nghề nghiệp của đương số phải biến chuyển nhiều lần, khó yên định; muốn làm kinh doanh buôn bán thì phải chấp nhận làm từ nhỏ đến lớn, từ tay trắng làm nên chứ không được dục tốc bất đạt cầu thắng trong phút chốc. Thứ đến là việc đồng độ của hai sao này là muốn thành công chỉ có nhờ phấn đấu trong sự gian khổ, từng bước đi lên chứ không phải là mới bước vào đã chỉ tay năm ngón chỉ đạo người khác. Huống hồ, Kỵ xung cung Quan Lộc thì con đường danh vọng tất yếu rất gian nan, Cự Môn hãm lại chủ về không gặp được thuận cảnh; cách cục này trừ phi làm công việc dùng miệng lưỡi để kiếm tiền, không thì làm các việc khác dễ bị tranh chấp thị phi, thiếu duyên buôn bán, quan hệ giao tế không tốt. Tuy nhiên, việc được giáp Tả, giáp Hữu ở cung Quan Lộc này thì về công danh, sự nghiệp cũng nhiều người bên ngoài giúp đỡ chứ không phải là không, chỉ là mình cố gắng đến được mức độ nào mà thôi. Mặc dù vậy thì cung Quan vô chính diệu thì tính định hướng thật là gian nan, cần phải rèn luyện lâu dài mới được.

Cung Quan Lộc có can Quý khiến cho Phá Quân Hóa Lộc ở cung Nô Bộc thì biểu thị cho đương số trong nhóm bạn bè không ra gì cũng có một số ít người có thể giúp bản thân kiếm được tiền, tạo điều kiện làm việc cho đương số. Can Giáp ở cung Nô chuyển Thái Dương Hóa Kỵ về cung Mệnh là đương số có tài năng, có tính chuyên nghiệp cao, khi có thời gian thích hợp thì mới có thể phấn đấu lên cao được. Can Quý lại khiến cho Tham Lang Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, xung đối cung Tài Bạch. Một lần nữa ý tượng tiên thiên nói lên rằng đương số đầu tư sáng lập cơ nghiệp tất nhiên phải cân nhắc rất kỹ lưỡng, không được bất chấp, làm đầu voi đuôi chuột thì chỉ tổ mệt mỏi thêm mà thôi. Hơn nữa, việc Tài Bạch bị xung thì công việc làm ăn sẽ có lúc phải mượn tiền để xoay sở, kinh doanh không nắm bắt được xu thế, xu hướng kinh doanh nên thường sẽ quyết định bỏ nửa chừng hoặc là gồng gánh nhưng cứ liều mình phải tham gia kinh doanh thì lúc nó đổ vỡ, mọi ý định tan biến thì sẽ rất bị đả kích, khó chịu. Do vậy, bố cục cung Quan này của đương số nên làm việc các cơ quan, công ty trước, tích lũy kinh nghiệm, mở rộng qua hệ giao tế ngoài đời cho thật kỹ càng rồi hẵng tính đến việc tự mình kinh doanh buôn bán sau thì tốt hơn.

1.9 Cung Điền Trạch:

Cung Điền Trạch của đương số có sao chính tinh Tử Vi miếu địa tọa thủ cung Ngọ. Với Tử Vi ở cung Điền Trạch đóng ở cung Ngọ được miếu địa thì đương số thường được ở nhà cao, đất cao, tự tăng sản nghiệp của mình. Bởi vì Tử Vi là đế tinh, cung Ngọ là nơi đón ánh mặt trời nhiều nên đương số có thể đầu tư vốn kinh doanh đất đai ở các vùng có địa thế cao, miền núi hoặc trong thành phố là các phòng cao của một tòa nhà cao tầng. Cung Điền có Tử Vi miếu địa sẽ khiến đương số có thể được thừa hưởng gia sản khá, từ đó có thể làm tăng thêm sản nghiệp hoặc cũng có thể tự mình tay trắng làm nên. Tuy nhiên, cung Điền này hội Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Linh, lại tác địa ở cung Ngọ cho nên dễ có vấn đề kinh sợ hỏa tai, cháy nổ, chập điện. Chính vì thế khi làm nhà thì nên chú ý an toàn ở đường dây điện, bếp là chủ yếu, còn như mua đất đai ở vùng cao thì cần quan sát địa thế coi có hỏa hoạn hay xảy ra hay không. Tử Vi ở cung Điền này chỉ được Tả Phù cho nên nó chỉ ứng tượng nhà đất cao, địa thế đón nhiều ánh sáng chứ không hẳn đương số có tay may mắn trong việc kinh doanh đất đai. Hóa khí cung Điền thì can Nhâm khiến cho Thiên Lương Hóa Lộc ở cung Mệnh biểu thị cho hoàn cảnh gia đình khá tốt, gia nghiệp hưng vượng, đương số được thừa hưởng phúc ấm của dòng họ về mặt điền sản nên không lo lắng gì. Cung Mệnh cũng là cung vị Tử Tức của Điền cung do vậy đương số nhất định sẽ có con cái, còn nếu phát sinh đào hoa thì thường hay dễ bắt duyên với đối tượng là người từng có hôn nhân hoặc đã có con.

Chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ về cung Phúc Đức, là cung vị Huynh Đệ của Điền Trạch thì ý tượng càng rõ, đương số sẽ được thừa hưởng gia sản rất khá, tạo tiền đề để cho đương số có được gia sản khá. Can Nhâm lại khiến Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ, là cung vị Tài Bạch của Điền cung, do đó đương số dứt khoác không nên qua lại tiền bạc với anh em trong nhà hay bạn bè của mình, bởi vì rất dễ bị tổn thất, gặp phiền phức, rắc rối nhiều. Nếu đương số tin lời người môi giới, anh em, hoặc bạn bè để mua điền sản thì thường sẽ gặp tổn thất, không chỉ mất tiền mất bạc mà còn mất đi cả tình cảm xây dựng bao lâu. Cần biết rằng cung Huynh Đệ là cung vị xoay chuyển tiền bạc của cả mệnh bàn, là Tài vị cùa Điền, việc nó có tượng Vũ Khúc Hóa Kỵ xung cung Nô Bộc, là cung Phúc của Điền cung thì đương số không nên lao vào bất động sản, chỉ có tiền dôi dư thì mua đất để dánh thì được, buôn bán không hợp chút nào, chỉ làm mình thâm hụt vốn liếng mà thôi. Chuyển Thiên Cơ Hóa Kỵ về cung Phúc Đức, cũng là cung vị Huynh Đệ của Điền cung, điều này cho thấy thu nhập mà đương số đem về nhà thường không ổn định, nếu lâu dài mà còn có gia đình nữa thì sẽ khiến cuộc sống bấp bênh. Việc Phúc cung có Thiên Cơ Hóa Kỵ xung cung Tài Bạch làm cho đương số đầu tư làm ăn dễ bị lỗ vốn, vận kinh doanh sẽ không được suôn sẻ, đi làm hưởng lương thì lại tốt hơn. Đương số cũng nên lưu ý trong vấn đề chia gia sản, hơn nữa bản thân cũng dễ vì hưởng thụ mà lãng phí tiền bạc, điều này cần nên cân nhắc cho kỹ. Nói chung, Điền cung không đến nỗi xấu, chỉ cần đương số lưu ý một số điều đã nói để phát triển thêm cơ nghiệp cho mình mà thôi.

1.10 Cung Phúc Đức đồng cung Thân:

Cung Phúc Đức của đương số có sao chính tinh Thiên Cơ vượng địa tọa thủ cung Tị. Thông thường, khi cung Thân đóng cùng cung Phúc Đức thì đương số bị ảnh hưởng bởi nhân quả khá lớn, nặng quan niệm về điều này. Bản thân cũng là người rất biết cảm thụ và nặng hưởng thụ cuộc sống cá nhân. Song Hao bại tinh ở cung Phúc, phối Xương Khúc, Hồng Loan thì không tránh khỏi có nhiều lúc chi tiền để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác thì việc Thiên Cơ thủ cung Phúc Đức là chủ về đương số hay lo nghĩ nhiều, hứng thú với nhiều thứ trong cuộc sống, tư tưởng không tập trung, suy tính thiếu chu đáo. Thiên Cơ cũng còn chủ về sự linh hoạt, tùy cơ ứng biến cho nên về cảm xúc và quyết định từ cảm nghĩ của đương số không cứng nhắc mà có độ mềm dẻo nhất định. Hơn nữa việc hội Xương Khúc, Hóa Khoa thì tâm hồn của đương số sẽ không bị giới hạn bởi lý lẽ của truyền thống mà có thể vượt lên trên nó, có thể thấu hiểu luân thường đạo lý nhưng lại không rập khuôn, bảo thủ. Đối với sự vật, hiện tượng bên ngoài đương số thường yêu chuộng cái đẹp rất nhiều, cũng thích phụ nữ có học thức chứ không phải hạng bình thường, không ưa sự cố định buồn tẻ, có thể tiếp nhận được nhiều kiến thức bên ngoài nhưng thường là không chuyên sâu môn nào cả. Hóa khí cung Phúc Đức thì can Tân khiến cho Cự Môn Hóa Lộc ở cung Thê biểu thị đương số luôn mơ tưởng đến một cuộc sống hôn nhân tốt đẹp, toàn vẹn; nhưng đáng tiếc là cung Phu Thê có Hóa Kỵ năm sinh cho nên khó mà có thể được như ý. Biểu hiện của điều này là đương số mắc nợ người phối ngẫu từ tiền kiếp rất nhiều, cho dù sau này cuộc sống hôn nhân có nhiều tranh cãi, thị phi thì cũng không muốn bỏ vợ. Cung Phu Thê cũng là cung vị Tài Bạch của Phúc cung, nó lại chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ ngược lại cung Phúc Đức, điều này chứng tỏ đương số là người không có tâm cơ xấu, bản thân cũng không muốn nhờ vả người nhà hay bạn bè, tự kiếm tiền tự hưởng thụ.

Đương số có bản tính khi muốn hưởng thụ điều gì thì rất sẵn sàng chi tiền để có được điều đó, tự cho rằng điều đó là một xúc cảm làm mình mãn nguyện. Tuy nhiên, can Tân lại khiến Văn Xương Hóa Kỵ ở cung Di, là cung vị Quan Lộc của Phúc cung; điều này dự báo đương số quan hệ giao tế trong công việc có chỗ không toàn diện, dễ tính toán điều có lợi cho mình mà thiệt hại cho người ta khiến mối quan hệ sẽ không lâu bền. Đồng thời việc phi Hóa Kỵ này còn xung cung Mệnh, là cung Phu Thê của Phúc cung, do đó đương số kém duyên với hôn nhân, hôn nhân muộn và khi kết hôn cũng dễ xảy ra tình trạng ly hôn. Đối với công việc, khách hàng ở phương xa hay nảy sinh tranh chấp, kình chống, có rắc rối về tính thẩm mỹ, giấy tờ không được hoàn thiện cho nên công việc sẽ không tiến triển như ý muốn. Bản thân phương diện lưu trú của đương số cũng xuất hiện nhiều vấn đề phong thủy không hợp lý. Cung này lại chuyển Thái Âm Hóa Kỵ về cung Tài Bạch, xung ngược cung Phúc Đức là bản thân rất xem trọng tiền bạc nhưng thực chất là không biết giữ tiền, hay bị tình trạng thu không đủ chi, nếu không có kế hoạch hợp lý cho cuộc sống của mình thì việc kiếm tiền sẽ trở nên vất vả và phải lo lắng cho người phối ngẫu rất nhiều. Cung Phúc hiện lên Song Hao, Đẩu Quân, Trực Phù, Phá Toái thì đương số nên ra sức cứu giúp người nghèo khó, nếu mình dư dả thì giúp họ nhiều hơn một chút, bằng không nên tự lượng mình mà làm việc thiện nhưng trước hết là phải luôn dựa vào cơ sở tài chính của mình mà thực thi một cách hiệu quả thì mới ổn được.

1.12 Cung Phụ Mẫu:

Cung Phụ Mẫu của đương số có sao chính tinh Thất Sát hãm địa tọa thủ cung Thìn. Cung Phụ Mẫu có Thất Sát hãm thì việc giao lưu giữ đương số và cha mẹ có phần không được êm thấm cho lắm. Bởi vì Thất Sát ở cung Phụ Mẫu không phải là sao thiện, nó tạo ra mối quan hệ xa cách với cha mẹ. Ở ý nghĩa rộng hơn thì việc Thất Sát hãm ở cung Phụ Mẫu cũng khiến đương số có mối quan hệ không tốt với cấp trên nếu đi làm việc cho công ty, đoàn thể nào đó; hoặc là quan hệ với trưởng bối cũng không gặp được sự thuận lợi. Hơn nữa, ở cung Phụ Mẫu này Thất Sát lại hội Cô Thần, Quả Tú cho nên ý nghĩa này càng được tăng mạnh hơn khiến đương số luôn cảm thấy mình bị cô lập, cô độc. Bản thân cung Phụ Mẫu này còn có Điếu Khách, Lưu Hà, lại còn gặp Địa Không, Địa Kiếp, Khốc Hư cho nên đương số khó mà sống chung được với cha mẹ, đường học hành cũng có nhiều chông gai, ít ai giúp đỡ mà mình phải tự nỗ lực đi lên mà thôi. Hóa khí cung Phụ Mẫu thì can Canh khiến Thái Dương Hóa Lộc ở cung Mệnh, là biểu hiện cha mẹ dù gì cũng sẽ rất quan tâm chăm sóc cho đương số, duyên phận đôi bên sâu nặng mặc dù khi lớn lên thì tính cách sẽ khá khắc nhau. Thái Dương chủ về bằng cấp, hội Lộc năm sinh ở cung Mệnh là Song Lộc, phát sinh từ cung Phụ Mẫu là cung học vấn vì vậy cũng biểu thị rằng đương số là người thích học hành, nếu thời cơ thuận lợi thì cũng có thành tích tương đối ổn. Nhưng vì từ cung Mệnh chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ về cung Phúc Đức thì lại biểu hiện cha mẹ cũng khá xem trọng chuyện hưởng thụ, ưa thể diện và tiêu tiền cũng không kiếm soát nhiều lắm. Can Canh lại khiến Thiên Đồng Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, điều này làm cho quan hệ giữa người phối ngẫu với cha mẹ sẽ không thông thuận, thường có điều ra tiếng vào, gièm pha, thị phi, nói xấu, hiểu lầm nhau. Mặt khắc thì công việc của cha mẹ cũng không thuận lợi lắm, không trợ lực được nhiều cho công việc hay sự nghiệp của đương số. Chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ về cung Phúc Đức lần nữa từ cung Phu Thê, kết hợp bản cung Phụ Mẫu có Bệnh Phù, Không Kiếp thì cha mẹ về thể chất rất yếu, nhiều nạn tai bệnh tật, cơ thể hay suy nhược, quan hệ với ông bà nội, ngoại không được tốt, được hữu hảo cho lắm. Nó cũng thể hiện rằng gia đình người phối ngẫu cũng ở tình trạng tài chính không được tốt. Nói chung, phát sinh ý tượng từ cung Phụ Mẫu có rất nhiều hàm nghĩa, đương số dù sao cũng còn cha mẹ thì cũng nên sống hiếu thảo với họ, mình sống tốt với cha mẹ thì sau này con cái của mình sẽ noi theo gương tốt của mình mà sống hiếu thảo.

2.  Các Đại Vận:

2.1 Đại vận 35 – 44t âm ( 2024 – 2033):

Đại vận này của đương số nhập hạn cung Điền Trạch. Khi đại vận đi đến chỗ cung Điền Trạch thì sẽ dễ có tượng liên quan đến đất đai, nhà cửa, con cái, giao lưu, hợp tác. Xem ý tượng phát sinh thì cung Điền có can Nhâm khiến cho Thiên Lương Hóa Lộc ở cung Mệnh, là cung Tử Tức đại vận; Tử Vi Hóa Quyền ở cung Điền Trạch, là cung Mệnh đại vận; Tả Phù Hóa Khoa ở cung Điền Trạch, là cung Mệnh đại vận; Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ, là cung Tài Bạch đại vận. Như vậy tương quan ở đại vận này đương số có duyên hợp tác làm ăn, sự cộng tác chỉ ở quy mô nhỏ, thường là thích làm chủ cuộc chơi chứ không chỉ là góp vốn hưởng lợi, Lộc hội với Lộc năm sinh, lại hội với nhiều sao đào hoa cho nên đại vận này cũng phát sinh không ít việc quan hệ nam nữ, năng lực tính dục đại vận này rất tốt, nhưng thường đương số thích mẫu người nổi tiếng, mẫu người có nhan sắc, gia giáo và có danh phận địa vị chứ không phải hạng tầm thường. Chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ kẹp Song Lộc về cung Phúc Đức, là cung Huynh Đệ đại vận. Ý tượng này cho thấy đương số trong đại vận này tình cảm anh em, bạn bè, chúng sinh khá tốt, có thể nhờ họ giúp đỡ mình thành công. Hơn nữa, đây là đại vận đương số có thể giao tế rất nhiều, kết giao thêm bằng hữu, có duyên với người xung quanh, đối với mọi người cũng sẽ rất nhiệt tình, có khi thi ân bất cầu báo. Song Lộc ở Huynh Đệ đại vận thì đại vận này kho tiền mặt của đương số được tăng lên đáng kể, có nhiều cơ hội để kiếm tiền, làm ăn ở nơi đông đúc, nhiều người. Tuy nhiên, điểm kết thúc này lại gặp Song Hao có tượng hao tổn, mà Văn Khúc lại không phải là sao tài lộc chính nghĩa, nó là sao đào hoa thứ cho nên vì các mối quan hệ nhân duyên mà tốn tiền, không loại trừ dễ bị người ta giật tiền của mình, hoặc chơi hụi thì bị người ta đem tiền đi mất.

Tượng nghĩa cuối cùng này liệu có liên quan hay không? Ta thấy Vũ Khúc Hóa Kỵ phi về cung Tài Bạch đại vận cho nên đương số ở 10 năm này nguyện vì tiền bạc mà hy sinh, cống hiến, có thể nói là sống chết vì tiền, lấy sự giàu có mà gắng sức một mực để đạt mục tiêu. Tuy nhiên, tiền kiếm được thì cũng nhiều đấy nhưng cũng sẽ dễ bị thấu chi, đương số không giữ được tiền của mình, thường chi tiền cho việc giao tế thù tạc với bạn bè, anh em xã hội nhiều; đôi lúc vì tình cảm mà hào phóng cho người ta nhưng sau khi cho thì lại hối hận. Vũ Khúc là sao tiền tài, việc nó Hóa Kỵ đi thì không hay, lại gặp Hóa Quyền năm sinh giao đấu, còn có Hỏa Linh, Địa Không cho nên tiền bạc bộc phát mà cũng dễ bị hao hụt, đương số thường vì tiền bạc mà chuốc phải thị phi. Chuyển Thiên Cơ Hóa Kỵ về cung Phúc Đức, cũng là cung Huynh Đệ đại vận. Như ta đã thấy thì Lộc cũng được chuyển về đây mà Kỵ cũng chuyển về đây; Lộc đi theo Kỵ vì Kỵ là kết quả cuối cùng, do vậy đương số lúc đầu sẽ kiếm được tiền khá nhưng sau đó dễ xảy ra phiền phức, tiền bạc qua lại sẽ có nhiều rối rắm. Hơn nữa, trong giai đoạn này việc đào hoa phát sinh thì đương số sẽ dễ kết hôn, nhưng không tránh khỏi những vấn đề ngoài luồng, tình cảm vợ chồng sẽ khó lưu thông không được tốt, đỉnh điểm sẽ dễ ly hôn vì cung Phúc Đức nguyên bàn có Kỵ phi về là mất phúc, nó còn là cung vị Huynh Đệ đại vận, nối giữa cung Thê và Mệnh đại vận, Kỵ ở Huynh Đệ thì chính là một sát thủ của hôn nhân, do đó cần phải cẩn thận với ý tượng này. Việc hôn nhân rạn nứt cũng có phần xuất phát nhiều từ việc giao lưu không tốt giữa mẹ chồng nàng dâu hoặc gia đình đương số, điều này cũng ảnh hưởng khá nhiều đến công việc mà đương số đang làm. Chính vì thế cần phải tỉnh táo mà xử lý tình huống, chớ nên hồ đồ, hấp tấp, tiết kiệm chi tiêu lại một cách hợp lý thì tốt hơn.  Một điểm đáng lưu ý là cung Mệnh đại vận hay là cung Điền nguyên bàn tự Hóa Quyền và tự Hóa Khoa thì năng lực của đương số lên khá cao, thích nắm quyền chỉ huy người ta, có thể làm được nhiều việc nhưng lại không tin tưởng người khác, rất sợ mình bị mất quyền lực.

Tử Vi Hóa Quyền thì bản tính rất bá đạo, tư tưởng ngoan cố, bướng bỉnh, thích ra oai, phách lối, thường tự cho mình là trung tâm vũ trụ, mình là nhất, không ai hơn được. Và việc tự Hóa Khoa một mặt làm cho đương số có phong độ, có thanh danh, nhưng nhược điểm là sẽ hơi khoe khoang, tự đề cao ưu điểm của mình với người khác, có lúc sẽ khoa trương quá sự thật; lắm khi làm được có ba bốn phần mà khoe khoang với xung quan cảm giác như chín,mười phần vậy. Do đó đương số nên hạn chế việc phóng đại, khiêm tốn là tốt nhất. Bởi vì đại vận cung Điền có Tử Vi nhưng lại hội Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu, lại gặp Kình Đà đại vận cũng hội chiếu. Do đó vận có lên cao thì cũng gặp không ít tiểu nhân, kẻ xấu muốn tới tranh đoạt với mình; nó cũng là tượng đương số dễ gặp phường gian giảo khiến mình bị tổn hao tài sản. Tuy nhiên, khi đánh giá qua quẻ Dịch vận mệnh thì mấy năm nay đương số sẽ có cơ hội để tiến lên, việc doanh mưu đều sẽ toại ý, chỉ cần biết điều chỉnh hướng đi đúng đắn cũng như bản thân đừng tham quá thì mọi thứ sẽ trong chu kỳ tăng trưởng, nắm bắt cơ hội và làm tốt nó là được.

2.2  Đại vận 45 – 54t âm ( 2034 – 2043):

Đại vận của đương số nhập hạn cung Quan Lộc. Khi đại vận đi đến chỗ cung Quan Lộc thì sự nghiệp, hôn nhân là vấn đề chủ yếu ở 10 năm này. Can cung này là Quý khiến cho Phá Quân Hóa Lộc ở cung Nô Bộc, là cung Phụ Mẫu đại vận; Cự Môn Hóa Quyền ở cung Thê, là cung Thiên Di đại vận; Thái Âm Hóa Khoa ở cung Tài Bạch, là cung Điền Trạch đại vận; Tham Lang Hóa Kỵ ở cung Tử Tức, là cung Nô Bộc đại vận. Đại vận này vào cung Quan nhưng nó lại vô chính diệu, hội Đà La, Thiên Hình, Thiên Không cùng với Thiên Đồng, Cự Môn, Hóa Kỵ chiếu thì không thể xem thường được. Lúc này xé về đại vận thì cung Quan là ngã cung, phi hóa về Nô Bộc và Tử Tức nguyên bàn đều là tha cung; lại xét thêm Mệnh đại vận phi hóa về Phụ Mẫu và Nô Bộc đại vận cũng đều là tha cung. Do đó tượng phi hóa là tổn thất, không phải thế thu vào, cho nên đại vận này rất kém. Trước tiên ta thấy Phá Quân Hóa Lộc ở cung Nô Bộc nguyên bàn, là Phụ Mẫu đại vận về mặt tốt đương số sẽ được giao lưu nhiều với bạn bè lớn tuổi hơn mình, là bậc trưởng bối, có thể nhờ họ cho lời khuyên, sự giúp đỡ chẳng hạn. Mặt khác thì cũng có thể đánh giá rằng đại vận này đương số đã có một khoản tiền trong tay, tín dụng tốt, dễ luân chuyển vốn hoặc cũng có thể giao dịch nhiều tiền bạc với người khác. Nhưng nên chú ý Phá Quân sẽ hóa thành sao Hao, gặp Cô Quả, Tang Môn, Lộc Tồn, Thiên Mã, Hỏa Linh thì dễ có ý tượng tuy là muốn bung vốn nhưng bản thân lại quá chặt chẽ, nửa chừng mâu thuẫn nhau về nội tâm, không định hướng rõ mục tiêu, đến khi cơ hội qua đi thì lại ngồi đó hối tiếc, than thở. Chuyển Thái Dương Hóa Kỵ về cung Mệnh, là cung Tài đại vận thì lại hóa hay, đương số sẽ có nhiều cơ hội kiếm tiền, có thể dựa vào bản thân mình mà nỗ lực nhưng quy mô kinh doanh chỉ nhỏ mà thôi, không lớn. Mặt khác thì việc đương số đại vận này vẫn đa tình, phát động nhiều đào hoa không phải là không có. Nhưng việc kiếm tiền có mỹ mãn và sẽ trôi về đâu? Xem xét Tham Lang Hóa Kỵ ở cung Tử Tức, là cung Nô Bộc đại vận. Lúc này nó xung cung Điền Trạch nguyên bàn, là cung Huynh Đệ đại vận. Do đó đương số về nhà cửa đất đai, anh em dễ gặp vấn đề không hay. Tiền bị cuốn vào các mối quan hệ không chính thống vì Tham Lang hóa khí thành đào hoa. Mặt khác nếu là kinh doanh mở tiệm thì người làm không tốt, nội bộ lộn xộn, thiếu tổ chức, phát triển không thuận lợi và chi nhiều hơn thu, dẫn đến kho tiền dần dần bị bào mòn đi hết. Ngoài ra, đương số cũng không nên qua lại tiền bạc với bạn bè vì phát sinh cho vay mượn thì dễ có đi mà không trở lại, khó mà thu hồi nguyên vẹn được. Vì cung Điền Trạch nguyên bàn bị Kỵ xung cho nên đại vận này có thể phải di dời nhà cửa liên tục, khó ở yên một chỗ, hợp tác với người khác phần nhiều sóng gió trắc trở.

Tuyến Tử Điền nguyên bàn cũng là tuyến Huynh Nô đại vận khi có Kỵ lạc vào thì dễ gặp đại kiếp số, vì cung Điền cũng là cung Mệnh thứ hai; luân chuyển thành cung Huynh Đệ là kho tài khố của bản thân. Cho nên nếu đương số mất đi tiền tài thì cũng gọi là của đi thay người chứ đừng hối tiếc. Bản thân nên sống tu tâm, tích đức, gieo nhiều quả thiện cũng như bản thân phải biết cứu giúp người nghèo khổ thì khi gặp vận xấu cũng sẽ nhẹ nhàng hơn. Chuyển Thiên Cơ Hóa Kỵ về cung Phúc nguyên bàn, là cung Phu Thê đại vận, Kỵ xung cung Tài Bạch nguyên bàn, là cung vị Quan Lộc đại vận. Như vậy về đại vận này nếu có hôn nhân thì dễ tan rã, thứ đến đương số trong công việc gặp tổn hao tiền bạc rất lớn, phải suy nghĩ nhức đầu mà có khi không tìm ra được đáp án. Nói thêm một chút là hôn nhân của đương số vào giai đoạn này lên thác xuồng ghềnh, mọi thứ chao đảo rất mạnh; tiền bạc phiền phức, khó giao lưu thông cảm về các mặt với người phối ngẫu. Nói chung là đại vận này đương số không cát, cần phải nghiêm túc nhìn nhận vấn đề, chớ có nên chủ quan với bất cứ điều gì vì nó cũng có thể dễ xảy ra cả. Chốt điểm cuối là cần bình tĩnh đánh giá từng vấn đề một, không bỏ sót dấu hiệu nào khi tài chính có nguy cơ bị tổn hại, chớ có tự tin thái quá thì sẽ hỏng. Trong 10 năm này thì giai đoạn xấu nhất có lẽ là 45-48t âm, nó kéo dài từ những năm cuối của đại vận trước sang. Đương số nếu sống không thiện lương, không biết tích lũy phúc báo thì sẽ bị giảm thọ, gặp nhiều hình khắc, tai ương giai đoạn này. Nếu vượt qua được những năm này thì tuy thời khắc 49-54t âm là giai đoạn quan trọng của đời người nhưng vẫn có thể sẽ được nhiều quý nhân phù trợ, lấy lòng thành ra mà đãi người thì tất sẽ được an vui, mọi việc xoay chuyển theo chiều hướng tốt hơn. Cái chính yếu là đại vận này đương số cung Mệnh đại vận bị Kỵ năm sinh xung, cùng với Cự Môn hãm là hạn thị phi rất lớn, nếu tu tâm dưỡng tính, biết kết giao người tốt, làm ơn cho kẻ khốn khó thì Tả Hữu giáp biên sẽ hỗ trợ cho đương số lúc nguy khốn.

3. Tử vi vận hạn 2022

3.1 Năm 2022 Nhâm Dần – 33t âm:

Năm nay lưu Thái Tuế nằm ở cung Dần. Đối với năm nay thì hạn vào cung Vũ Tướng gặp Hỏa Linh, Hóa Quyền. Cho nên về tượng ý là đương số sẽ có động lực lớn, cung như sức hành động mạnh, tuy vậy thì Vũ gặp Hóa Quyền đồng độ Hỏa Linh thì tính nóng nảy cũng nhiều, chưa kể gặp Bạch Hổ thì vội vàng, muốn mau chóng xong việc mà bất kể hậu quả thế nào. Xét về vòng vận động của đại vận thì năm nay không bị khắc gì nhiều. Tuy nhiên, năm Nhâm Dần khiến cho Thiên Lương Hóa Lộc ở cung Mệnh, là cung vị Phu Thê đại vận, là cung vị Phụ Mẫu lưu niên; Vũ Khúc tự Hóa Kỵ gặp Hóa Quyền năm sinh ở cung Huynh Đệ, là cung Tử Tức đại vận, là cung Mệnh lưu niên. Như vậy về mặt tích cực thì năm nay đương số được trưởng bối nâng đỡ, quan hệ với cha mẹ cũng tốt hơn, nếu có học hành thi cử thì năm nay có thành tích tốt. Đồng thời lấy Phu Thê đại vận làm hóa tượng thì đương số sẽ có duyên với người khác, có phát sinh đào hoa nhiều, cũng đồng thời cũng có mong muốn kết hôn. Nhưng bởi vì Thiên Lương không nên Hóa Lộc, bởi vì Hóa Lộc là có tượng tranh chấp, lại còn cung Phu Thê đại vận, cung Phụ Mẫu lưu niên này bị Kỵ đại vận xung, Kình Đà hội cho nên khó tránh khỏi nếu có tình yêu thì không phải chỉ có duy nhất mình theo đuổi mà là một cuộc đua với những người khác, việc tranh chấp tượng tình cảm khá lớn. Chuyển Văn Khúc Hóa Kỵ về cung Phúc Đức, là cung Huynh Đệ đại vận, là cung vị Điền Trạch lưu niên; do đó đương số muốn kết thành hôn nhân nhưng có khi hôn nhân sẽ không thành, có nhiều chông gai, trắc trở. Chỉ có sự thật thà, trung hậu và chân thành, đôi bên cư xử một cách chân thành thì mới có hạnh phúc được. Tuy nhiên, do cung Mệnh lưu niên năm này Vũ Khúc tự hóa Kỵ cho nên có điềm tượng về tiền bạc không tốt, Nói chung là sẽ nặng tâm lý nghi kỵ, hành sự bất định và dễ bị hoàn cảnh bên ngoài gây ảnh hương đến tâm trạng của mình. Lấy Kỵ thu Lộc thì đời sống tình cảm năm nay tuy có nhiều nhưng không êm ấm cho lắm. Mở rộng ý tượng bằng quẻ Dịch thì đương số năm nay chỉ nên yên lặng chờ thời, thông biến, linh hoạt. Việc gì làm cũng không nên tin người thái quá, rồi có lúc sẽ bị thất vọng lớn. Một năm vất vả ngược xuôi, nếu làm ăn mà chỉ biết thu lợi thật nhiều, không đếm xỉa đến lợi ích của người khác thì tất yếu dễ gặp thất bại, thua lỗ. Do đó, lời khuyên cho năm nay của đương số là việc gì đến với mình thì nên cẩn thận suy nghĩ, chớ nên vọng động, không hiểu sự tình mà vội có cử chỉ, hành vi không đúng thì rất dễ hối tiếc hoặc có sự thị phi ngay. Về bệnh tật nên quan tâm đến việc bồi dưỡng sức khỏe cho tốt, có thể có các bệnh về hệ hô hấp ảnh hưởng lớn nhất.

4.  Bát tự cải vận bổ khuyết

Bát Tự : Canh Ngọ – Canh Thìn – Kỷ Mùi – Ất Sửu

Đương số có can ngày Kỷ thổ là biểu thị cho bản thân đương số. Kỷ thổ sinh tháng thìn là được vượng địa, cho thấy đương số là người khỏe mạnh, bản thân là người có thể dung nạp người khác, thích vạch ra kế hoạch, cũng là người có khả năng phán đoán nhạy bén, thường cẩn trọng trong việc đối nhân xử thế. Nhưng người Kỷ thổ thường có sự đa nghi lớn, trong bát tự thổ cũng vượng quá thành thử cũng là người bảo thủ, hay cố chấp với ý kiến của mình,

Trong bát tự hành thủy với can Nhâm, Quý là biểu trưng cho người phối ngẫu của đương số, cũng là nhân duyên tình cảm. Thủy ở tháng Thìn là nhập mộ, trong bát tự hành thổ quá nhiều chèn lấp thủy cho nên về tình duyên là không may mắn, khó tìm được người ưng ý với mình hoặc cảm giác là khá vô duyên với chuyện tình yêu. Tuy nhiên, hai đại vận 14-23, 24-33t âm thì vào hai vận tài, có thể nảy sinh tình cảm nhiều, có mối lương duyên với người khác giới, nhưng vì là vận Nhâm Ngọ, Quý Mùi, thủy không vượng, thành thử khó mà kết nối được một kết cục toàn vẹn. Thủy cũng là tài vận của đương số, thủy không hiện thì tài lộc bấp bênh, may có 2 can Canh là Thương Quan hiện cho nên đương số là người nhanh nhạy, máu me kinh doanh, thích làm ăn, tự thân vận động để có tiền nuôi sống chính mình.

Cung con cái là Sát tinh, lại gặp Không Vong, Đại Hao cho nên đường con cái e rằng cũng khá khó khăn, cha con sau này tính cách cũng không hợp nhau. Suy ngược lại thì giữa đương số và cha mẹ thì vẫn có sự hiếu thuận nhưng hai bên sẽ tương đối khắc khẩu, khó có thể cùng chung tư tưởng.

Quan tinh trong bát tự  không hiện, nếu hiện ra thì bị Kim khắc cho nên về mặt quan vận cũng không ổn, con đường sự nghiệp tất có điều chông chênh,

Hành Thổ trong bát tự cũng quá nhiều, Thồ nhiều chèn lấp mất Thủy, mà Thủy lại không hiện cho nên đương số về mặt bệnh tật có nguy cơ bệnh thận, tiểu đường, cũng là Thổ vượng quá mà có thể bị dạ dày, tì vị bất ổn, ăn uống không tiêu hóa cho nên thân thể vàng vọt, khó mà mập mạp được.

Đương số với bát tự này can Kỷ nếu lấy Giáp mộc làm dụng thần thì sẽ bị Canh kim khắc, không có lợi. Do đó nên chọn Thủy là can Quý làm dụng để tưới nhuần bát tự vì Kỷ thổ sinh tháng Thìn là mùa gieo trồng ngũ cốc, cần mưa thuận gió hòa. Sau đó lấy Giáp mộc khơi thông. Tháng Thìn tiến khí qua gần mùa hè, thổ dày nên không cần dùng Bính hỏa nữa. Vậy lấy dụng thần Quý thủy, Giáp mộc làm hỷ thần.

Cải vận bổ khuyết cho đương số khi có dụng thần là Qúy Thổ

Đương số có thể tra trên mạng các thông tin về dụng thần thủy nên cần ăn gì, bổ sung gì, mặc áo màu gì để làm theo thì có thể bổ sung cho vận mệnh mình.

Khi đã chọn Dụng Thần là Nhâm Thủy thì đương số cần làm một số phương pháp sau để cải vận:

Các phương pháp sau đây đương số có thể tham khảo:

  1. Về màu sắc: nên chọn màu chủ đạo là quần áo màu xanh da trời, màu đen, màu xám, màu trắng cũng vẫn dùng được.
  2. Nếu mua nhà nên chọn những nơi gần biển, sông hồ, có không khí thoáng mát và nhiều thủy sẽ đem lại sinh khí nhiều hơn.
  3. Trong nhà riêng nên có 1 bể cá cảnh thật đẹp, cần nuôi 9 con cá, trong đó phải có 1 con màu đen tuyền, bể cá nên đặt ở hướng Bắc lệch một chút qua Đông Bắc thì sẽ cát lợi. Còn không nuôi được 9 con thì nên nuôi 1 con cá Rồng cũng là điều nên làm. Nên thay nước hành tuần chớ để bể cá dơ vận sẽ suy.
  4. Ăn uống nên tập trung vào đồ hải sản như tôm, cua, sò hến, trai, cá, thịt lợn, thịt bò, rong biển, giá đỗ, vừng, mộc nhĩ…
  5. Mua xe nên chọn màu xanh da trời, đen, trắng, màu ánh bạc đều dùng được
  6. Nếu đi nước ngoài không nên đi về phương Nam mà nên đi về Phương Bắc sẽ gặp nhiều điều cát lợi hơn. Về các nước ngoài lãnh thổ thì có thể đi Trung Quốc, Nga, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng nạp khí cho đương số nhiều. Còn trong nước có thể đi Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh là những nơi cũng có khí Thủy tụ.
  7. Trong nhà nếu có bồn tắm thì cũng có thể cải vận, dùng bột khoáng muối biển xanh ngâm để tắm, hàng ngày chừng 15-20p. Người cần Thủy tối kỵ tắm dưới vòi hoa sen sẽ suy vận.
  8. Phòng ngủ nên có màu sơn xanh da trời, màu trắng cũng tốt.Phòng tắm tối kỵ bị tắc nước. Trước nhà có thể bố trí một đài phun nước nhỏ.

Trong nhà đương số cần Thủy, không cần Hỏa cho nên cũng không cần thiết phải tự mình nấu ăn nhưng phải giữ cho nhà bếp sạch sẽ, ngăn nắp, nhà vệ sinh phải khô ráo thì khí tuần hoàn trong nhà mới tốt được. Trong nhà cũng không cần thiết thắp quá nhiều đèn, nên lựa chọn góc cạnh để khuếch tán ánh sáng, tối kỵ mở đèn nhiều sẽ làm đương số mau mệt

  • Tag:
    Bài viết khác

    Luận giải tử vi nam mệnh Vô Chính Diệu, Mệnh chủ lấy dịch chuyển làm gốc, lấy nghề nghiệp lưu động làm sự phát triển

    Luận giải tử vi chuyên sâu nam mệnh Vô Chính Diệu, Mệnh chủ lấy dịch chuyển làm gốc, lấy nghề nghiệp lưu động làm sl làm sự yên ổn cho bản thân mà thôi. Đó là dựa trên nên tảng thời thế sao thì mình sống như thế đó, không có gì phải than vãn […]

    Luận giải lá số nữ mệnh Liêm Tham Tỵ Hợi, số phải ly hương mới thoát khỏi tai kiếp

    Luận giải tử vi chuyên sâu lá số nữ mệnh Liêm Tham Tỵ Hợi, số phải ly hương mới thoát khỏi tai kiếp, chứ nếu ở nơi mình sinh ra thì số phận gặp lắm tai ương Sinh ngày 11/10/1980 lúc 10h30 sáng dương lịch. Tức ngày:  03/09/Canh Thân giờ Tỵ âm lịch. Bát Tự […]

    Luận giải tử vi chuyên sâu nam mệnh Cự Đồng theo phương pháp Tứ Hoá

    Luận giải tử vi chuyên sâu nam mệnh Cự Đồng theo phương pháp Tứ Hoá, một đời nỗ lực hết mình không bao giờ chịu chấp nhận số phấn, luôn nỗ lực không ngừng Sinh ngày 19/07/1983 vào lúc 11h5 dương lịch. Tức ngày:  10/06/Quý Hợi giờ Ngọ âm lịch. Bát Tự : Quý Hợi – […]

    mail zalo facebook
    0914 599 687